Theo Ông HỒ VĂN HƯỞNG – Phó Chủ
Tịch Hiệp Hội Vận Tải Ô tô Việt Nam - Đại diện phía Nam cho để biết.
Vừa qua, Ngân hàng nhà nước VN gửi Công văn số 3851/NHNN-PC ngày
24/05/2017 yêu cầu các Tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm túc quy định về việc:
Bên thế chấp giữ bản gốc Giấy đăng ký phương tiện giao thông trong thời hạn Hợp
đồng thế chấp còn hiệu lực theo Nghị định số 163/2006/NĐ-CP (đã được sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định 11/2012/NĐ-CP)
Ngoài ra, Cục Cảnh sát giao thông – Bộ Công an cũng đã có Công văn
số 2916/C67-P9 ngày 31/05/2017 gửi Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương có đề cập: Đối với những phương tiện thế chấp tại Ngân hàng tham gia giao
thông, Bên thế chấp được giữ bản gốc Giấy đăng ký phương tiện giao thông trong
thời hạn Hợp đồng thế chấp còn hiệu lực theo Nghị định số 163/2006/NĐ-CP (đã
được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 11/2012/NĐ-CP)
Nhưng hầu như các ngân hàng đều không trả giấy đăng ký xe bản gốc
cho khách vay. Vậy, căn cứ pháp lý để ngân hàng không trả giấy đăng ký xe cho
người thế chấp khi còn đang vay vốn dù ngân hàng nhà nước gửi công văn số
3851/NHNC-PC ngày 24/05/2017 là gì?
Thứ 1: Việc Ngân hàng giữ bản gốc Giấy chứng nhận đăng ký xe của
các Khách hàng dựa trên quy định của Bộ Luật dân sự 2015, trong đó Luật ghi
rõ:
- Tại Khoản 1 Điều 320 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Bên thế chấp có nghĩa vụ
giao giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp trong trường hợp các bên có thỏa
thuận, trừ trường hợp luật có quy định khác.
- Và Khoản 6 Điều 323 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Bên nhận thế chấp có quyền
giữ giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp trong trường hợp các bên có thỏa
thuận, trừ trường hợp luật có quy định khác.
Thứ 2: Trước thời điểm giải ngân vay mua ô tô, Khách hàng đã tự
nguyện ký giấy ủy quyền cho ngân hàng giữ bản gốc Giấy chứng nhận đăng ký xe ô
tô cho đến khi Khách hàng hoàn thành mọi nghĩa vụ trả nợ thế chấp bằng chiếc xe
đó cho ngân hàng, điều này không trái với quy định của Pháp luật hiện hành. ( Hầu
hết các ngân hàng đều yêu cầu khách hàng ký ủy quyền hoặc các hợp đồng tương
đương thể hiện nội dung này trước khi giải ngân vay tiền ngân hàng)
Thứ 3: Nghị định số 163/2006/NĐ-CP và các văn bản sửa đổi, bổ sung
tại từng thời điểm là các văn bản dưới Luật nên không được xem là căn cứ để
loại trừ theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015. ( Nghị định là các văn bản
hướng dẫn thi hành luật của chính phủ, trong trường hợp này thì Nghị định
163/2006/NĐ-CP và văn bản hướng dẫn cho Bộ luật dân sự 2005, không thể làm căn
cứ để bác các nội dung trong Bộ luật dân sự 2015)
Thứ 4: Tính hiệu lực của các nghị định mà ngân hàng nhà nước nêu
trong công văn số 3851/NHNN-PC, cũng như được nêu trong công văn số 2916/C67-P9
ngày 31/05/2017 của Bộ công an đã không còn giá trị kể từ ngày 01/01/2017, cụ
thể:
- Các Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 ( được sửa đổi bổ
sung ngày 22/02/2012 bởi Nghị định 11/2012/NĐ-CP) là văn bản dưới luật nhằm
hướng dẫn cho bộ luật dân sự 2005 số 33/2005/QH11 ngày 14/06/2005.
- Hiện tại bộ luật dân sự 33/2005/QH11 đã hết hiệu lực toàn bộ kể từ ngày
01/01/2017, bị thay thế bởi Bộ luật dân sự mới số 91/2015/QH13 ngày
24/11/2015
- Căn cứ trên Điều 154 của Luật số 80/2015/QH13 về luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật ngày 22/06/2015 quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu
lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành, văn bản đó cũng
đồng thời hết hiệu lực.”
Căn cứ trên các quy định trên, hiện tại Nghị định 163/2006/NĐ-CP,
11/2012/NĐ-CP, luật dân sự số 33/2005/QH11 năm đã không còn hiệu lực từ ngày
01/01/2017. Vì vậy công văn số 3851/NHNN-PC của ngân hàng nhà nước và
2916/C67-P9 của CSGT - Bộ công an viện dẫn các Nghị định đã không còn hiệu lực
pháp lý để làm căn cứ xử phạt là không phù hợp.
Do vậy, việc cơ quan công an yêu cầu khách
hàng đang vay vốn ngân hàng thế chấp giấy đăng ký xe xuất trình bản gốc giấy
đăng ký xe khi khách hàng đã xuất trình được Giấy uỷ quyền cho Ngân hàng giữ
bản gốc và giấy lưu hành xe có xác nhận của Ngân hàng là không phù hợp với quy
định của Bộ luật dân sự.